Danh sách đĩa nhạc của Nirvana

Danh sách đĩa nhạc của Nirvana
Kurt Cobain (trước) và Krist Novoselic (sau) của ban nhạc Nirvana biểu diễn tại lễ trao giải Video âm nhạc của MTV năm 1992.
Album phòng thu3
Album trực tiếp3
Album tổng hợp4
Album video6
Video âm nhạc8
EP2
Đĩa đơn21
Sản phẩm khác17

Danh sách đĩa nhạc của Nirvana, một ban nhạc rock người Mỹ có nguyên quán tại Aberdeen, Washington, gồm 3 album phòng thu, 21 đĩa đơn, 3 album trực tiếp, 4 album tổng hợp, 2 đĩa EP và 2 box set. Nirvana được thành lập vào năm 1987 bởi giọng ca chính kiêm nhạc công chơi guitar Kurt Cobain và nhạc công chơi bass Krist Novoselic, trong khi vị trí tay trống đã trải qua nhiều lần thay đổi nhân sự. Ban nhạc phát hành album phòng thu đầu tay có tựa Bleach vào năm 1989 thông qua hãng đĩa độc lập Sub Pop. Sau khi kết nạp thêm tay trống cuối cùng Dave Grohl và kí hợp đồng với hãng đĩa con của Geffen Records là DGC Records, ban nhạc phát hành album phòng thu thứ hai Nevermind. Nhạc phẩm đã trở thành một trong những album nhạc alternative bán chạy nhất thập niên 1990,[1][2] đồng thời giúp phong trào grunge ở Seatle và nhạc alternative trở nên phổ biến rộng rãi.[3] Album phòng thu thứ ba của nhóm, In Utero cũng giành được thành công về mặt chuyên môn và thương mại, mặc dù nó không đạt doanh số bằng album tiền nhiệm Nevermind như các thành viên trong ban nhạc đã kỳ vọng.[4] Nirvana tan rã vào năm 1994 sau cái chết của Cobain; kể từ đó ban nhạc đã phát hành một số sản phẩm sau khi Kurt qua đời. Tuy nhiên điều này từng dẫn đến một cuộc tranh chấp pháp lý giữa góa phụ của Cobain Courtney Love và các thành viên còn lại của nhóm thông qua việc phát hành "You Know You're Right".[5] Năm 2006, Love đã nhượng lại trách nhiệm phân phối một lượng lớn tác quyền danh mục các bài hát của Cobain cho Primary Wave Music Publishing.[6] Kể từ khi ra mắt nhạc phẩm đầu tay, Nirvana đã bán được 27,6 triệu album chỉ tính riêng tại thị trường Hoa Kỳ[7] và hơn 75 triệu bản trên toàn thế giới.[8]

Album

Album phòng thu

Tựa đề Chi tiết Vị trí xếp hạng Doanh số Chứng nhận
(dựa theo doanh số)
Hoa Kỳ Mỹ
[9]
Áo Áo
[10]
Canada Canada
[11]
Hà Lan Hà Lan
[12]
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland L.H. Anh
[13]
Na Uy Na Uy
[14]
New Zealand New Zealand
[15]
Nhật Bản Nhật
[16]
Phần Lan Phần Lan
[17]
Thụy Điển Thụy Điển
[18]
Thụy Sĩ Thụy Sĩ
[19]
Úc Úc
[20]
Bleach
  • Phát hành: 15 tháng 6 năm 1989
  • Hãng đĩa: Sub Pop (SP-34)
  • Định dạng: CD, cassette (CS), LP
89 26 33 30 46 22 34
  • Mỹ: 1.900.000[7]
Nevermind
  • Phát hành: 24 tháng 9 năm 1991
  • Hãng đĩa: DGC (24425)
  • Định dạng: CD, CS, LP
1 2 1 3 5 2 2 24 1 1 2 2
  • Mỹ: 10.640.000[7][25]
  • Toàn thế giới: 30.000.000[26]
  • Mỹ:  Kim cương[27]
  • Áo:  Bạch kim[28]
  • Brazil:  Bạch kim[29]
  • Canada:  Kim cương[22]
  • Đan Mạch: 5× Bạch kim[30]
  • Đức: 2× Bạch kim[31]
  • Hà Lan:  Bạch kim[32]
  • L.H. Anh: 5× Bạch kim[23]
  • New Zealand: 7× Bạch kim[33]
  • Pháp:  Kim cương[24]
  • Phần Lan: Vàng Vàng[34]
  • Thụy Điển: Vàng Vàng[35]
  • Thụy Sĩ:  Bạch kim[36]
  • Úc: 5× Bạch kim[37]
  • Ý: 2× Bạch kim[38]
In Utero
  • Phát hành: 21 tháng 9 năm 1993
  • Hãng đĩa: DGC
  • Định dạng: CD, CS, LP
1 8 3 4 1 7 3 13 6 1 16 2
  • Mỹ: 5.000.000[39]
  • Toàn thế giới: 15.000.000[40]
  • Mỹ: 5× Bạch kim[41]
  • Áo: Vàng Vàng[28]
  • Brazil: Vàng Vàng[29]
  • Canada: 6× Bạch kim[22]
  • Đức: Vàng Vàng[31]
  • Hà Lan: Vàng Vàng[32]
  • L.H. Anh: 2× Bạch kim[23]
  • Na Uy: Vàng Vàng[42]
  • New Zealand: 3× Bạch kim[43]
  • Pháp:  Bạch kim[24]
  • Thụy Điển: Vàng Vàng[35]
  • Úc: 2× Bạch kim[44]
  • Ý: Vàng Vàng[45]
"—" biểu thị album không được phát hành hoặc không được xếp hạng tại quốc gia đó.

Album trực tiếp

Tựa đề Chi tiết Vị trí xếp hạng Doanh số Chứng nhận
(dựa theo doanh số)
Hoa Kỳ Mỹ
[9]
Áo Áo
[10]
Canada Canada
[11]
Hà Lan Hà Lan
[12]
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland L.H. Anh
[13]
Na Uy Na Uy
[14]
New Zealand New Zealand
[15]
Nhật Bản Nhật
[16]
Phần Lan Phần Lan
[17]
Thụy Điển Thụy Điển
[18]
Thụy Sĩ Thụy Sĩ
[19]
Úc Úc
[20]
MTV Unplugged in New York
  • Phát hành: 1 tháng 11 năm 1994
  • Hãng đĩa: DGC, Geffen (24727)
  • Định dạng: CD, CS, LP
1 1 1 2 1 6 1 20 3 2 3 1
  • Mỹ: 5.100.000[7]
  • Mỹ: 5× Bạch kim[41]
  • Áo: 2× Bạch kim[28]
  • Brazil:  Bạch kim[29]
  • Canada: 9× Bạch kim[22]
  • Châu Âu: 2× Bạch kim[46]
  • Hà Lan:  Bạch kim[32]*Phần Lan: Vàng Vàng[34]
  • L.H. Anh: 3× Bạch kim[23]
  • New Zealand:  Bạch kim[47]
  • Na Uy:  Bạch kim[42]
  • Pháp: 2× Bạch kim[24]
  • Tây Ban Nha: 2× Bạch kim[48]
  • Thụy Điển: Vàng Vàng[35]
  • Thụy Sĩ: 2× Bạch kim[36]
  • Úc: 5× Bạch kim[37]
  • Ý:  Bạch kim[38]
From the Muddy Banks of the Wishkah
  • Phát hành: 1 tháng 10 năm 1996
  • Hãng đĩa: DGC, Geffen (25105)
  • Định dạng: CD, CS, LP
1 3 1 14 4 8 2 12 2 6 9 1
  • Mỹ: 1.300.000[7]
  • Mỹ:  Bạch kim[21]
  • Áo: Vàng Vàng[28]
  • Canada: 2× Bạch kim[22]
  • L.H. Anh: Vàng Vàng[23]
  • Pháp: 2× Vàng[24]
Live at Reading
  • Phát hành: 3 tháng 11 năm 2009
  • Hãng đĩa: Geffen (B0013503-02) (B0013501-00)
  • Định dạng: CD, CD+DVD, combo 2 LP
37 28 17 64 32 28 33 7 97
  • Mỹ: 148.000[7]
  • L.H. Anh:  Bạc[23]
Live at the Paramount
  • Phát hành: 5 tháng 4 năm 2019[49][50]
  • Hãng đĩa: DGC
  • Định dạng: combo 2 LP
"—" biểu thị album không được phát hành hoặc không được xếp hạng tại quốc gia đó.

Album tổng hợp

Tựa đề Chi tiết Vị trí xếp hạng Doanh số Chứng nhận
(dựa theo doanh số)
Hoa Kỳ Mỹ
[9]
Áo Áo
[10]
Canada Canada
[11]
Hà Lan Hà Lan
[12]
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland L.H. Anh
[13]
Na Uy Na Uy
[14]
New Zealand New Zealand
[15]
Nhật Bản Nhật
[16]
Phần Lan Phần Lan
[17]
Thụy Điển Thụy Điển
[18]
Thụy Sĩ Thụy Sĩ
[19]
Úc Úc
[20]
Incesticide
  • Phát hành: 12 tháng 12 năm 1992
  • Hãng đĩa: Sub Pop, DGC (24504)
  • Định dạng: CD, CS, LP
39 10 21 31 14 23 50 16 27 18 22
  • Mỹ: 1.400.000[7]
  • Mỹ:  Bạch kim[21]
  • Canada: 2× Bạch kim[22]
  • L.H. Anh:  Bạch kim[23]
  • Pháp: Vàng Vàng[24]
Nirvana
  • Phát hành: 29 tháng 10 năm 2002
  • Hãng đĩa: DGC, Geffen (25105)
  • Định dạng: CD, CS, LP
3 1 2 12 3 5 2 6 9 10 2 1
  • Mỹ: 2.400.000[7]
  • Mỹ: 2× Bạch kim[51]
  • Áo:  Bạch kim[28]
  • Brazil:  Bạch kim[29]
  • Châu Âu: 2× Bạch kim[52]
  • L.H. Anh: 3× Bạch kim[23]
  • Na Uy:  Bạch kim[42]
  • New Zealand:  Bạch kim[53]
  • Pháp: Vàng Vàng[24]
  • Phần Lan: Vàng Vàng[34]
  • Tây Ban Nha: Vàng Vàng[54]
  • Thụy Điển: Vàng Vàng[35]
  • Thụy Sĩ:  Bạch kim[36]
  • Úc: 5× Bạch kim[55]
  • Ý:  Bạch kim[56]
Sliver: The Best of the Box
  • Phát hành: 1 tháng 11 năm 2005
  • Hãng đĩa: DGC, Geffen (000561702), Universal (1190)
  • Định dạng: CD
21 26 56 33 87 95
  • Mỹ: 376.000[7]
Icon
  • Phát hành: 31 tháng 8 năm 2010
  • Hãng đĩa: Universal
  • Định dạng: CD
"—" biểu thị album không được phát hành hoặc không được xếp hạng tại quốc gia đó.

Box set

Tựa đề Chi tiết Vị trí xếp hạng Doanh số Chứng nhận
(dựa theo doanh số)
Hoa Kỳ Mỹ
[9]
Áo Áo
[10]
Canada Canada
[11]
Đan Mạch Đan Mạch
[57]
Hà Lan Hà Lan
[12]
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland L.H. Anh
[13]
Na Uy Na Uy
[14]
New Zealand New Zealand
[15]
Nhật Bản Nhật
[16]
Pháp Pháp
[58]
Thụy Sĩ Thụy Sĩ
[19]
Singles
  • Phát hành: tháng 12 năm 1995
  • Hãng đĩa: DGC, Geffen (24901)
  • Định dạng: box set gồm 6 đĩa CD
5 101 17
With the Lights Out
  • Phát hành: 23 tháng 11 năm 2004
  • Hãng đĩa: DGC, Geffen (000372700), Universal (9864838)
  • Định dạng: box set gồm 3 đĩa CD và 1 đĩa DVD
19 34 10 65 56 31 39 16 20 28
  • Mỹ: 546.000[7]
  • Mỹ:  Bạch kim[21]
  • L.H. Anh:  Bạc[23]
Nevermind: The Singles
  • Phát hành: 25 tháng 11 năm 2011
  • Hãng đĩa: Universal
  • Định dạng: box set gồm 4 đĩa than 10 inch
"—" biểu thị box set không được phát hành hoặc không được xếp hạng tại quốc gia đó.

EP

Tựa đề Chi tiết Vị trí xếp hạng Chú giải
Nhật Bản Nhật
[16]
Úc Úc
[20]
Blew Ban nhạc từng dự định phát hành Blew nhằm quảng bá cho một chuyến lưu diễn châu Âu, nhưng rốt cuộc chuyến lưu diễn đã bị hủy và EP được phát hành độc quyền tại Anh sau khi khâu sản xuất hoàn tất.[59]
Hormoaning
  • Phát hành: 5 tháng 2 năm 1992
  • Hãng đĩa: DGC, Geffen
  • Định dạng: đĩa than 12 inch, CD, CS
67 2 Hormoaning từng được phát hành riêng tại thị trường ÚcNhật Bản, với hai bản hát lại đi kèm với sản phẩm ở mỗi nước, nhằm quảng bá cho chuyến lưu diễn của ban nhạc tại vành đai Thái Bình Dương.[60] Hormoaning đã được tái phát hành với số lượng có hạn nhân dịp lễ hội Record Store Day năm 2011.
"—" biểu thị EP không được phát hành hoặc không được xếp hạng tại quốc gia đó.

Đĩa đơn

Đĩa đơn lẻ

Ca khúc Năm Vị trí xếp hạng cao nhất Chứng nhận Album
Hoa Kỳ Mỹ
[61]
Hoa Kỳ Mainstream Mỹ
[62]
Hoa Kỳ Alternative Mỹ
[63]
Úc Úc
[20]
Bỉ Bỉ
[64]
Canada Canada
[65]
Châu Âu
[66]
Phần Lan Phần Lan
[67]
Pháp Pháp
[68]
Cộng hòa Ireland Ireland
[69]
Hà Lan Hà Lan
[70]
New Zealand New Zealand
[71]
Thụy Điển Thụy Điển
[72]
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland L.H. Anh
[73]
"Love Buzz"[A] 1988 Bleach
"Sliver"[B] 1990 19 23 77 Đĩa đơn không nằm trong album
"Smells Like Teen Spirit" 1991 6 7 1 5 1 9 4 8 1 15 3 1 3 7
  • Mỹ:  Bạch kim (thường)[21]
  • Mỹ: Vàng Vàng (kĩ thuật số)[21]
  • Úc: Vàng Vàng[74]
  • Đan Mạch:  Bạch kim[75]
  • Ý: 2× Bạch kim[38]
  • New Zealand: Vàng Vàng[76]
  • Thụy Điển: Vàng Vàng[77]
  • Anh: 2× Bạch kim[23]
Nevermind
"Come as You Are" 1992 32 3 3 25 15 27 15 8 12 7 16 3 24 9
"Lithium" 64 16 25 53 28 83 19 1 5 17 28 11
"In Bloom" 5 73 65 16 7 87 20 30 28
"Heart-Shaped Box" 1993 4 1 21 31 17 16 9 37 6 36 9 16 5 In Utero
"All Apologies"/
"Rape Me"[C]
[D] 4
1
58 43 41
77 20 20 32 32
"Pennyroyal Tea" 1994 [E] 121[F]
"About a Girl"[G] [H] 3 1 4 13 10 64 8 23 22 20 MTV Unplugged in New York
"You Know You're Right"[I] 2002 45 1 1 Nirvana
"—" biểu thị đĩa đơn không được phát hành hoặc không được xếp hạng tại quốc gia đó.

Ghi chú

  1. ^ Đĩa đơn "Love Buzz" từng được phát hành với số lượng có hạn: 1000 bản sao dưới dạng đĩa đơn lẻ và 200 bản sao dưới dạng đĩa đơn quảng bá.
  2. ^ Dù "Sliver" từng được dự tính phát hành thành một đĩa đơn độc lập thông qua Sub Pop vào năm 1990, nhưng bài hát vẫn không được xếp hạng tại Ireland cho đến sau thành công của album Nevermind, đồng thời cũng không được xếp hạng tại Hoa Kỳ cho đến khi nó xuất hiện trên album tổng hợp có tựa Incesticide do DGC phát hành.
  3. ^ "All Apologies" và "Rape Me" đều được cùng phát hành thành một đĩa đơn hai mặt A và do đó vị trí xếp hạng của chúng đều tính cho cả hai nhưng bảng xếp hạng airplay ("Airplay" chỉ tần suất mà một bài hát được phát trên các đài phát thanh âm nhạc. Một bài hát được phát đi phát lại nhiều lần và hàng ngày sẽ tích luỹ được nhiều "airplay".) thì chỉ tính cho "All Apologies".
  4. ^ Dù không được xếp hạng trên Billboard Hot 100 nhưng "All Apologies" giành vị trí cao nhất — hạng 45 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 Airplay.[78]
  5. ^ Đĩa đơn "Pennyroyal Tea" bị hủy phát hành sau khi Kurt Cobain qua đời vào năm 1994, tuy nhiên ca khúc vẫn ra mắt ở vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Hot Singles Sales của Billboard,[79] khi được tái phát hành nhân dịp ngày Record Store Day vào năm 2014.
  6. ^ Dù đĩa "Pennyroyal Tea" bị hủy phát hành sau khi Kurt Cobain qua đời vào năm 1994, nhưng bài hát vẫn giành vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng UK Physical Singles Sales,[80] và vị trí thứ 121 trên UK Singles Chart,[81] khi được tái phát hành nhân dịp ngày Record Store Day vào năm 2014.
  7. ^ Đĩa đơn "About a Girl" chỉ được phát hành tại thị trường lục địa châu Âu và Úc, nhưng lại được phát hành trên radio tại Mỹ.
  8. ^ Dù không được xếp hạng trên Billboard Hot 100 nhưng "About a Girl" giành vị trí cao nhất — hạng 22 trên bảng xếp hạng Hot 100 Airplay của Billboard.[78]
  9. ^ "You Know You're Right" chỉ được phát hành dưới dạng nhạc số và đĩa đơn quảng bá.

Đĩa đơn quảng bá

Ca khúc Năm Vị trí xếp hạng cao nhất Album
Hoa Kỳ Airplay Mỹ
[78]
Hoa Kỳ Mainstream
Mỹ
[62]
Hoa Kỳ Alternative
Mỹ
[82]
Bỉ Bỉ
[64]
[83]
Canada Canada
[65]
Canada Alternative
Canada
[84]
Airplay châu Âu
[85]
Phần Lan Airplay
Phần Lan
[17]
Pháp Pháp
[68]
Ba Lan Airplay
Ba Lan
[86]
"On a Plain"[a] 1991 25 Nevermind
"Molly's Lips"[b] 1992 Incesticide
"Dumb" 1994 37 In Utero
"Sappy" 9 No Alternative
"All Apologies" MTV Unplugged in New York
"The Man Who Sold the World" 1995 39 12 6 40 22 29 149 1
"Where Did You Sleep Last Night"
"Lake of Fire" 22 17
"Aneurysm" 1996 63 11 13 49 1 40 17 From the Muddy Banks of the Wishkah
"Drain You" 44
"—" biểu thị nhạc phẩm không được phát hành hoặc không được xếp hạng tại quốc gia đó.

Ghi chú

  1. ^ Chỉ phát hành tại Mỹ.
  2. ^ Chỉ phát hành tại Brazil.

Split single[a]

Tên đĩa Năm Nghệ sĩ Vị trí xếp hạng cao nhất
Anh
[87]
Châu Âu
[88]
"Candy/Molly's Lips" 1991 The Fluid
"Here She Comes Now/Venus in Furs" The Melvins
"Puss/Oh, the Guilt" 1993 The Jesus Lizard 12 36
"—" biểu thị đĩa đơn không được phát hành hoặc không được xếp hạng tại quốc gia đó.

Ghi chú

  1. ^ "Split single" là đĩa đơn bao gồm nhiều bài hát của từ hai nghệ sĩ riêng lẻ trở lên.

Các bài hát được cấp chứng nhận khác

Ca khúc Năm Chứng nhận Album
"Been a Son" 1989
  • Đan Mạch: Vàng Vàng[89]
Blew

Video âm nhạc

Danh sách video âm nhạc với năm phát hành và tên đạo diễn
Tựa Năm Đạo diễn
"Paper Cuts"[90][91] 1988 RadioShack
"If You Must"[91][92]
"In Bloom" (phiên bản của Sub Pop) 1990 Steve Brown[93]
"Smells Like Teen Spirit" 1991 Samuel Bayer[94]
"Come as You Are" 1992 Kevin Kerslake[95]
"Lithium"
"In Bloom"
"Sliver" 1993
"Heart-Shaped Box" Anton Corbijn[96]
"You Know You're Right" 2002 Chris Hafner[97]

Album video

Tựa Chi tiết Vị trí xếp hạng Chứng nhận
Hoa Kỳ Mỹ
[98]
Na Uy Na Uy
[99]
New Zealand New Zealand
[100]
Úc Úc
[101]
Live! Tonight! Sold Out!!
  • Phát hành: 15 tháng 11 năm 1994
  • Phát hành: 7 tháng 11 năm 2006
    • Định dạng: DVD
  • Hãng đĩa: Geffen
2 6 6 9
  • Mỹ: 3× Bạch kim[21]
  • Canada: 2× Bạch kim[22]
  • L.H. Anh: 2× Bạch kim[23]
  • New Zealand:  Bạch kim[102]
  • Úc:  Bạch kim[103]
Classic Albums: Nirvana – Nevermind
  • Phát hành: 22 tháng 3 năm 2005
  • Hãng đĩa: Eagle Rock Entertainment
  • Định dạng: DVD
3 13
  • Mỹ:  Bạch kim[21]
  • New Zealand: Vàng Vàng[102]
  • Úc:  Bạch kim[104]
MTV Unplugged in New York
  • Phát hành: 20 tháng 11 năm 2007
  • Hãng đĩa: DGC
  • Định dạng: DVD
6 1 3
  • L.H. Anh:  Bạch kim[23]
  • New Zealand:  Bạch kim[102]
  • Úc:  Bạch kim[103]
Live at Reading
  • Phát hành: 2 tháng 11 năm 2009
  • Hãng đĩa: DGC
  • Định dạng: DVD
1 4
  • New Zealand: Vàng Vàng[102]
  • Úc:  Bạch kim[44]
Live at the Paramount
  • Phát hành: 27 tháng 9 năm 2011
  • Hãng đĩa: DGC
  • Định dạng: DVD, Blu-ray
1 4 1
Live and Loud
  • Phát hành: 24 tháng 9 năm 2013
  • Hãng đĩa: DGC
  • Định dạng: DVD
1 2
"—" biểu thị album không được phát hành hoặc không được xếp hạng tại quốc gia đó.

Các sản phẩm khác

Ca khúc Năm Album Chú giải
"Spank Thru"[106] 1988 Sub Pop 200 Một bản thu âm lại của bài hát lần đầu được trình bày trong album demo Illiteracy Will Prevail do các thành viên của Nirvana thực hiện dưới nghệ danh Fecal Matter.
"Mexican Seafood"[107] 1989 Teriyaki Asthma, Vol. 1 Phát hành sau này trong Incesticide.
"Beeswax"[108] 1991 Kill Rock Stars
"Dive"[109] The Grunge Years
"Do You Love Me?"[110] 1990 Hard to Believe: Kiss Covers Compilation Bản hát lại một ca khúc năm 1976 của Kiss.
"Here She Comes Now" Heaven & Hell: A Tribute to The Velvet Underground Bản hát lại một ca khúc năm 1968 của Velvet Underground. Bài hát từng xuất hiện trong đĩa riêng "Here She Comes Now/Venus in Furs" vào năm 1991 sau đó xuất hiện trong box set With the Lights Out năm 2004 và trong các phiên bản cao cấp kỉ niệm 20 năm Nevermind năm 2011.
"Return of the Rat"[111] 1993 Eight Songs for Greg Sage and The Wipers Bản hát lại một ca khúc của 1979 của Wipers. Sau này ca khúc được đưa vào trong With the Lights Out.
"Verse Chorus Verse"[112] No Alternative Bài hát này do Nirvana đóng góp cho tổ chức từ thiện Red Hot Organization nhưng lại không được ghi nhận và là một hidden track.[a][113] Ca khúc lúc đầu có tựa là "Sappy", nhưng bị đổi tên khi được đưa vào album No Alternative. Bài hát sau đó xuất hiện trong box set With the Lights Out năm 2004 với tựa "Sappy" và trong các phiên bản cao cấp kỉ niệm 20 năm In Utero với tựa "Sappy" năm 2013.
"I Hate Myself and Want to Die"[114] The Beavis and Butt-head Experience Được ghi âm trong quá trình thực hiện album In Utero. Phiên bản này của bài hát "I Hate Myself and Want to Die" từng được chọn làm bài hát mặt B của đĩa đơn bị hủy phát hành "Pennyroyal Tea" nhưng khác với phiên bản trong With the Lights Out.
"Pay to Play"[115] 1994 DGC Rarities Vol. 1 Đây là phiên bản đầu tiên của "Stay Away" — một ca khúc thuộc Nevermind. "Pay to Play" sau đó được đưa vào With the Lights Out năm 2004 trong các phiên bản cao cấp kỉ niệm 20 năm Nevermind năm 2011.
"Radio Friendly Unit Shifter"[116] 1996 Home Alive: The Art of Self Defense Biểu diễn trực tiếp tại buổi hòa nhạc ở Grenoble, Pháp vào năm 1994.
"Rape Me"[117] 1999 Saturday Night Live: The Musical Performances Vol. 2 Biễu diễn trực tiếp trên chương trình Saturday Night Live.
Chú giải
  1. ^ Trong lĩnh vực thu nhạc, một "hidden track" (hoặc còn gọi là "secret track") là một bản nhạc được ghi lại trên CD, cassette, đĩa LP hoặc phương tiện thu âm khác theo một phương pháp bí mật để tránh sự phát hiện từ những thính giả thông thường. Xem thêm tại đây.

Các bài hát chưa phát hành

Tháng 5 năm 2002, Courtney Love, goá phụ của Cobain, tuyên bố rằng bà sở hữu 109 băng đĩa chưa phát hành do Cobain thực hiện độc lập hoặc cùng các thành viên khác của Nirvana.[118] Trong số này rất nhiều bài đã được phát hành trong box set With the Lights Out (2004) gồm 61 bài hát, cùng với ba ca khúc "mới phát hiện" góp mặt trong phần tổng hợp Sliver: The Best of the Box (2005).[119] Nhiều sáng tác chưa phát hành của Nirvana đã xuất hiện trong các phiên bản cao cấp và siêu cao cấp kỉ niệm 20 năm ra đời các album NevermindIn Utero lần lượt vào năm 2011 và 2013.[120][121][122] Nhiều ca khúc chưa phát hành khác cũng góp mặt trong Montage of Heck: The Home Recordings (2015) — album nhạc phim đi kèm với bộ phim Kurt Cobain: Montage of Heck. Đạo diễn bộ phim Brett Morgen cho biết trong kho lưu trữ của Cobain anh đã phát hiện ra những đoạn âm thanh có thời lượng 200 giờ trên hơn 108 băng cassette và anh nghĩ album nhạc phim nói trên "sẽ là chất liệu bổ sung tuyệt vời cho bộ phim".[123]

Chú thích

  1. ^ “No Dog Days of Summer for Teen Toppers”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. 31 tháng 8 năm 1999. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2017.
  2. ^ “Top 100 Albums”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2017.
  3. ^ Olsen, Eric (2004). “10 years later, Cobain lives on in his music”. MSNBC.com. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2004. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2017.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  4. ^ Gaar, Gillian G. (2006). In Utero 33⅓. New York: Continuum. ISBN 0-8264-1776-0. p. 3
  5. ^ vanHorn, Teri (29 tháng 6 năm 2001). “Courtney Love Sues Grohl And Novoselic, Blocks Nirvana Rarity”. MTV.com. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2002. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2017.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  6. ^ Lash, Jolie (30 tháng 3 năm 2006). “Courtney Sells Nirvana Rights Share”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2007.
  7. ^ a b c d e f g h i j “Ask Billboard: Rihanna's (Quirky) Record in the Hot 100's Top 10 With 'Needed Me'”. billboard.com. Truy cập 6 tháng 10 năm 2018.
  8. ^ Gupta, Rapti (17 tháng 12 năm 2013). “Nirvana to be Inducted to the Rock Hall of Fame in 2014”. International Business Times. Truy cập 28 tháng 10 năm 2018.
  9. ^ a b c d “Nirvana – Chart History: Billboard 200”. Billboard. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2009.
  10. ^ a b c d “Suche nach: Nirvana”. AustrianCharts.at. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2018.
  11. ^ a b c d
    • Đối với các vị trí cao nhất của album trước và cho đến năm 2000: “Nirvana Top Albums/CDs positions (26–190)”. RPM. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2018.
    • Đối với các vị trí cao nhất của album sau năm 2000: “Nirvana Album & Song Chart History – Canadian Albums”. Billboard. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2018.
  12. ^ a b c d “Search for: Nirvana”. DutchCharts.nl. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2017.
  13. ^ a b c d Vị trí cao nhất ở Anh:
    • Đối với tất cả album ngoại trừ box set Singles: “Nirvana UK Chart History”. officialcharts.com. Truy cập 21 tháng 6 năm 2016.
    • Đối với box set Singles: “UK Chart Log 1994 – 2010”. zobbel.de. Truy cập 21 tháng 6 năm 2016.
  14. ^ a b c d “Search for: Nirvana”. NorwegianCharts.com. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2017.
  15. ^ a b c d “New Zealand Album Charts – Nirvana”. charts.org.nz. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2012. Truy cập 22 tháng 7 năm 2016.
  16. ^ a b c d e
    • Trước và cho đến năm 2005: Album Chart-Book Complete Edition 1970–2005. Orikonmāketingupuromōshon (2006). ISBN 4-87131-077-9.
    • Đối với "Live at Reading": “Nirvana – Live at Reading”. oricon ME (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2015.
  17. ^ a b c d Pennanen, Timo (2003). Sisältää hitin: levyt ja esittäjät Suomen musiikkilistoilla vuodesta 1972. Otava Publishing Company Ltd. ISBN 951-1-21053-X.
  18. ^ a b c “Search for: Nirvana”. SwedishCharts.com. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2017.
  19. ^ a b c d “Suche nach: Nirvana”. HitParade.ch. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2017.
  20. ^ a b c d e Vị trí cao nhất ở Úc (ARIA Chart):
    • Vị trí cao nhất nằm trong top 50: “australian-charts.com > Nirvana discography”. Hung Medien. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2015.
    • Vị trí cao nhất nằm trong khoảng 51–100 tính đến tháng 12 năm 2010: Ryan, Gavin (2011). Australia's Music Charts 1988–2010. Mt. Martha, VIC, Australia: Moonlight Publishing.
    • Còn lại: Sliver: The Best of the Box: pandora.nla.gov.au. “ARIA Chart report 5th December 2005” (PDF). Pandora, Australia's Web Archives. Truy cập 26 tháng 7 năm 2017.
  21. ^ a b c d e f g h “Search Results”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2018.
  22. ^ a b c d e f g h “Gold Platinum Database: Nirvana”. Canadian Recording Industry Association. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2015.
  23. ^ a b c d e f g h i j k l m n o “Certified Awards Search”. British Phonographic Industry. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2017. Ghi chú: Người dùng cần nhập từ "Nirvana" vào mục "Search", từ "Artist" trong mục "Search by" và click vào nút "Search". Chọn "More info" bên cạnh mục liên quan để xem lịch sử chứng nhận đầy đủ.
  24. ^ a b c d e f g “InfoDisc: Les Certifications (Albums) du SNEP (Bilan par Artiste)”. Infodisc.fr. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2017.
  25. ^ David, Barry (18 tháng 2 năm 2003). “Shania, Backstreet, Britney, Eminem And Janet Top All Time Sellers”. Bertelsmann Music Group. New York: Music Industry News Network. Bản gốc lưu trữ 3 tháng 7 năm 2003. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2017.
  26. ^ “Billboard Bits: Nirvana's 'Nevermind' To Be Re-Released, No More Guest Stars on 'Glee'”. billboard.com. Truy cập 12 tháng 12 năm 2014.
  27. ^ “RIAA – Diamond Awards”. www.riaa.com. RIAA. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 6 năm 2011. Truy cập 20 tháng 9 năm 2015.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  28. ^ a b c d e “IFPI Austria” (bằng tiếng Đức). IFPI Austria. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 7 năm 2013.
  29. ^ a b c d “ABPD” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Associação Brasileira dos Produtores de Discos. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2019.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  30. ^ “Nirvana "Nevermind"”. IFPI Denmark. Truy cập 30 tháng 1 năm 2018.
  31. ^ a b “Gold-/Platin-Datenbank (Nirvana)” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie.
  32. ^ a b c “NVPI – Goud/Platina”. nvpi.nl. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 8 năm 2018. Truy cập 6 tháng 8 năm 2018.
  33. ^ “NZ Music Charts”. nztop40.co.nz. 7 tháng 11 năm 2011. Truy cập 9 tháng 5 năm 2017.
  34. ^ a b c “IFPI – Tilastot – Kulta- ja platinalevyt” (bằng tiếng Phần Lan). IFPI Finland. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2019.
  35. ^ a b c d “Guld & Platina | ifpi”. Ifpi.se. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2017.
  36. ^ a b c “Swiss certificate gold”. swisscharts.com.
  37. ^ a b “ARIA Report – Week commencing 15 June 2015 – issue 1320” (PDF). pandora.nla.gov.au. Truy cập 26 tháng 6 năm 2015.
  38. ^ a b c d “Nirvana – Italian Certifications in 2018”. fimi.it. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2015. Truy cập 5 tháng 2 năm 2018.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  39. ^ "Nirvana 20 Years of 'In Utero'". NME. 14 tháng 9 năm 2013. tr 32. Quoting Sound Scan.
  40. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. nme.com. 10 tháng 9 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 3 năm 2016. Truy cập 14 tháng 9 năm 2018. Đã định rõ hơn một tham số trong |tiêu đề=|title= (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  41. ^ a b “Top 100 Albums”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2007.
  42. ^ a b c “IFPI Norsk platebransje”. Ifpi.no. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 11 năm 2017.
  43. ^ “Latest Gold / Platinum Albums”. Radioscope. Bản gốc lưu trữ 24 tháng 7 năm 2011. Truy cập 15 tháng 12 năm 2014.
  44. ^ a b “ARIA Report Week Commencing – 30 September 2013 Issue #1231” (PDF). pandora.nla.gov.au. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2019.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  45. ^ “Nirvana – Italian 2016 Certifications”. fimi.it. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 2 năm 2015. Truy cập 11 tháng 7 năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  46. ^ “IFPI Platinum Awards 1996”. Liên đoàn Công nghiệp ghi âm quốc tế. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 3 năm 2017.
  47. ^ “NZ Music Charts – 22 October 1995”. nztop40.co.nz. Truy cập 9 tháng 5 năm 2017.
  48. ^ “Spanish top albums week 9, 2009” (PDF). promusicae.es. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2018.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  49. ^ “Nirvana's Live at the Paramount will be released on vinyl”. kerrang.com. Kerrang!. 26 tháng 2 năm 2019. Truy cập 26 tháng 2 năm 2019.
  50. ^ Aubrey, Elizabeth (26 tháng 2 năm 2019). “Nirvana's famed 'Live at the Paramount' concert is being released on vinyl”. NME. Truy cập 26 tháng 2 năm 2019.
  51. ^ “NIRVANA'S SELF-TITLED COLLECTION DEBUTS ON VINYL AND BLU-RAY PURE AUDIO”. universalmusicenterprises.com. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2015. Truy cập 23 tháng 11 năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  52. ^ “IFPI Platinum Awards 2007”. International Federation of the Phonographic Industry. 19 tháng 4 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2018.
  53. ^ “The Official New Zealand Music Charts – 6 April, 2003”. nztop40.co.nz. Truy cập 15 tháng 3 năm 2017.
  54. ^ “Spanish top albums, 2007-03-12/18” (PDF). promusicae.es. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2017.
  55. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2015 Albums”. aria.com.au. Truy cập 30 tháng 7 năm 2015.
  56. ^ “Nirvana – Italian Certifications in 2017”. fimi.it. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 2 năm 2015. Truy cập 21 tháng 3 năm 2017.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  57. ^ “Top National Sellers” (PDF). Music & Media. 20 tháng 1 năm 1996: 15. Truy cập 28 tháng 10 năm 2018. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)[liên kết hỏng]
  58. ^ Vị trí xếp hạng tại Pháp:
    • Đối với Singles: “Nirvana – Singles – French Singles Charts”. lescharts.com. Truy cập 21 tháng 6 năm 2016.
    • Đối với With the Lights Out: “Nirvana – With the Lights Out – French Albums Chart”. lescharts.com. Truy cập 21 tháng 6 năm 2016.
  59. ^ “DAY-BY-DAY HISTORY: 1989”. LiveNirvana.com. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2017.
  60. ^ Bekkala, Steve. “Hormoaning: Review”. Allmusic. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2017.
  61. ^ “Nirvana – Chart History: Hot 100”. billboard.com. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2017. Truy cập 30 tháng 11 năm 2017.
  62. ^ a b “Nirvana – Chart History: Mainstream Rock Tracks”. billboard.com. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2017. Truy cập 30 tháng 11 năm 2017.
  63. ^ “Nirvana – Chart History: Alternative Songs”. Billboard. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2017.
  64. ^ a b “Nirvana Belgiam Ultratop Charts”. ultratop.be/nl. Truy cập 17 tháng 9 năm 2017.
  65. ^ a b *Đối với "Smells Like Teen Spirit": “RPM 100 Hit Tracks”. RPM. 22 tháng 2 năm 1992. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 1 năm 2016. Truy cập 23 tháng 3 năm 2019.
    • Đối với "Come as You Are": “RPM 100 Hit Track”. RPM. 18 tháng 4 năm 1992. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 4 năm 2019. Truy cập 23 tháng 3 năm 2019.
    • Đối với "Lithium": “RPM 100 Hit Tracks”. RPM. 29 tháng 8 năm 1992. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 4 năm 2017. Truy cập 23 tháng 3 năm 2019.
    • Đối với "Heart-Shaped Box: “RPM 100 Hit Tracks”. RPM. 4 tháng 12 năm 1993. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 1 năm 2016. Truy cập 23 tháng 3 năm 2019.
    • Đối với "All Apologies": “RPM 100 Hit Tracks”. RPM. 7 tháng 3 năm 1994. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2016. Truy cập 23 tháng 3 năm 2019.
    • Đối với "About a Girl": “RPM 100 Hit Tracks”. RPM. 5 tháng 12 năm 1994. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 10 năm 2016. Truy cập 23 tháng 3 năm 2019.
    • Đối với "The Man Who Sold the World": “RPM 100 Hit Tracks”. RPM. 27 tháng 2 năm 1995. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2016. Truy cập 23 tháng 3 năm 2019.
    • Đối với "Aneurysm": “RPM 100 Hit Tracks”. RPM. Last week's position. 25 tháng 11 năm 1996. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2019. Truy cập 23 tháng 3 năm 2019.
  66. ^ *Đối với "Smells Like Teen Spirit": “Hits of the World” (PDF). Billboard. 7 tháng 3 năm 1992: 38. Truy cập 28 tháng 7 năm 2018. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)[liên kết hỏng]
    • Đối với "Come as You Are": “Eurochart Hot 100 Singles” (PDF). Music & Media. 28 tháng 3 năm 1992: 45. Truy cập 28 tháng 7 năm 2018. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
    • Đối với "Lithium": “Eurochart Hot 100 Singles” (PDF). Music & Media. 15 tháng 8 năm 1992: 17. Truy cập 17 tháng 1 năm 2019. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
    • Đối với "In Bloom": “Last Week's Position”. Eurochart Hot 100 Singles (PDF). Music & Media. 9 tháng 1 năm 1993. tr. 11. Truy cập 28 tháng 7 năm 2018.
    • Đối với "Heart-Shaped Box": “Eurochart Hot 100 Singles” (PDF). Music & Media. 18 tháng 9 năm 1993: 12. Truy cập 27 tháng 7 năm 2018. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
    • Đối với "All Apologies" / "Rape Me": “Eurochart Hot 100 Singles” (PDF). Music & Media. 15 tháng 1 năm 1994: 15. Truy cập 28 tháng 7 năm 2018. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
    • Đối với "About a Girl": “Eurochart Hot 100 Singles” (PDF). Music & Media. 14 tháng 1 năm 1995: 9. Truy cập 28 tháng 7 năm 2018. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  67. ^ *Đối với "Smells Like Teen Spirit": “Top Ten Sales in Europe” (PDF). Music & Media. 21 tháng 3 năm 1992: 26. Truy cập 23 tháng 3 năm 2019. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp) hoặc “Top Ten Sales in Europe” (PDF). Music & Media. 14 tháng 3 năm 1992: 22. Truy cập 23 tháng 3 năm 2019. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
    • Đối với "Come as You Are": “Top Ten Sales in Europe” (PDF). Music & Media. 28 tháng 3 năm 1992: 47. Truy cập 23 tháng 3 năm 2019. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp) hoặc “Top Ten Sales in Europe” (PDF). Music & Media. 4 tháng 4 năm 1992: 14. Truy cập 23 tháng 3 năm 2019. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
    • Đối với "Lithium": “Top Ten Sales in Europe” (PDF). Music & Media. 8 tháng 8 năm 1992: 14. Truy cập 23 tháng 3 năm 2019. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp) hoặc “Top Ten Sales in Europe” (PDF). Music & Media. 1 tháng 8 năm 1992: 32. Truy cập 23 tháng 3 năm 2019. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)[liên kết hỏng]
    • Đối với "In Bloom" (và những bài khác): Pennanen, Timo (2003). Sisältää hitin: levyt ja esittäjät Suomen musiikkilistoilla vuodesta 1972. Otava Publishing Company Ltd. ISBN 951-1-21053-X. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2019.
    • Đối với "Heart-Shaped Box": “Top 10 Sales in Europe” (PDF). Music & Media. 9 tháng 10 năm 1993: 13. Truy cập 23 tháng 3 năm 2019. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)[liên kết hỏng] hoặc “Top 10 Sales in Europe” (PDF). Music & Media. 2 tháng 10 năm 1993: 14. Truy cập 23 tháng 3 năm 2019. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)[liên kết hỏng]
    • Đối với "About a Girl": “Top 10 Sales in Europe” (PDF). Music & Media. 19 tháng 11 năm 1994: 26. Truy cập 23 tháng 3 năm 2019. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  68. ^ a b “Search for: Nirvana”. LesCharts.com. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2017.
  69. ^ “Search the Charts”. IrishCharts.ie. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2017.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  70. ^ dutcharts.nl. “Dutch Chart Archives”. Truy cập 18 tháng 6 năm 2017.
  71. ^ “Nirvana – New Zealand Singles Chart Positions”. charts.org.nz. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2012. Truy cập 16 tháng 3 năm 2017.
  72. ^ “Search for: Nirvana”. SwedishCharts.com. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2017.
  73. ^
    • Đối với tất cả bài hát ngoại trừ "Sliver" và "Pennyroyal Tea": “Nirvana UK Singles Chart Positions”. officialcharts.com. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2017.
    • Đối với "Sliver": “Hit Singles”. Hit Music. Gallup. 28 tháng 11 năm 1992. Ghi chú: vị trí xếp hạng gốc năm 1991 của "Sliver" là hạng 90, còn đây là vị trí khi bài hát tái xuất vào năm 1992, hạng 77, nhưng chỉ có Top 75 mới được lưu trữ bởi OCC cho tuần có ngày 5 tháng 12 năm 1992:“UK Singles Chart ngày 29 tháng 11 năm 1992 - ngày 5 tháng 12 năm 1992”. officialcharts.com. Truy cập 3 tháng 1 năm 2019.
    • Đối với "Pennyroyal Tea": “CHART LOG UK: NEW ENTRIES UPDATE – CLUK Update 26.04.2014 (wk16)”. zobbel.de. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2016.
  74. ^ “1992 ARIA Singles Chart”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2016. Truy cập 23 tháng 9 năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  75. ^ “Nirvana Smells Like teen Spirit – Denmark IFPI Certification – Track”. Ifpi.dk. Truy cập 12 tháng 5 năm 2019.
  76. ^ “The Official New Zealand Music Chart Top 40 – ngày 24 tháng 5 năm 1992”. nztop40.co.nz. Truy cập 11 tháng 7 năm 2016.
  77. ^ “Swedish single certifications – Nirvana – Smells Like Teen Spirit” (bằng tiếng Thụy Điển). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Thụy Điển. Bản gốc lưu trữ 11 tháng 11 năm 2015. Truy cập 11 tháng 7 năm 2016.
  78. ^ a b c Nirvana US Billboard Hot 100 Airplay Charts. billboard.com. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2018.
  79. ^ “Record Store Day Chart Recap: Vinyl Album Sales Reach Historic High”. billboard.com. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2017. Truy cập 25 tháng 4 năm 2016.
  80. ^ “Official Physical Singles Chart Top 100 – ngày 27 tháng 4 năm 2014 – ngày 3 tháng 5 năm 2014”. officialcharts.com. Truy cập 28 tháng 2 năm 2017.
  81. ^ “CHART LOG UK: NEW ENTRIES UPDATE – CLUK Update 26.04.2014 (wk16)”. zobbel.de. Truy cập 28 tháng 2 năm 2016.
  82. ^
    • Đối với "On a Plain", "The Man Who Sold the World" và "Aneurysm": “Nirvana – Chart History: Alternative Songs”. Billboard. Truy cập 24 tháng 2 năm 2019.
    • Đối với "Dumb": “Alternative National Airplay” (PDF). Radio & Records. Radio & Records: 70. 17 tháng 6 năm 1994. Truy cập 24 tháng 2 năm 2019.
    • Đối với "Sappy": “Alternative - Songs Reaching Top 15 in 1994” (PDF). Radio & Records. Radio & Records: 36. 16 tháng 12 năm 1994. Truy cập 25 tháng 2 năm 2019. 'Sappy' xếp hạng dưới tựa đề là 'Verse, Chorus, Verse' — đây từng là tựa của ca khúc được sử dụng trong album tổng hợp năm 1993 No Alternative
    • Đối với "Drain You": “Alternative Top 50” (PDF). Radio & Records. Radio & Records: 84. 20 tháng 12 năm 1996. Truy cập 24 tháng 2 năm 2019.
  83. ^ Collin, Robert. Het Belgisch Hitboek: 45 Jaar Hits in Vlaanderen: 1954–1999. Lier, Vox. ISBN 90-76695-01-6.
  84. ^ “Nirvana Rock/Alternative positions”. RPM. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2018.
  85. ^ “M & M Charts Airplay EHR Top 40” (PDF). Music & Media. Music & Media: 33. 18 tháng 2 năm 1995. Truy cập 26 tháng 1 năm 2019.[liên kết hỏng]
  86. ^ “Archiwum Listy Przebojow – Trojki – Nrivana”. www.lp3.pl. Polskie Radio. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2018. Truy cập 30 tháng 12 năm 2018.
  87. ^ “Nirvana UK Singles Chart Positions”. officialcharts.com. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2014.
  88. ^ Eurochart Hot 100 Singles (PDF). Music & Media. 13 tháng 3 năm 1993. tr. 23. Truy cập 27 tháng 7 năm 2018.
  89. ^ “Certificeringer – IFPI Danmarks guld – og platin Certificeringer”. ifpi.dk. IFPI Danmark. 13 tháng 11 năm 2018. Truy cập 1 tháng 12 năm 2018.
  90. ^ Nirvana - Paper Cuts - RadioShack. Aberdeen, Washington: YouTube. 1988. Truy cập 23 tháng 12 năm 2018.
  91. ^ a b “Flashback: Nirvana Film Music Video in Empty Radio Shack”. rollingstone.com. Rolling Stone. Truy cập 12 tháng 12 năm 2018.
  92. ^ Nirvana - If you Must Videoclip 1988. Aberdeen, Washington: YouTube. 1988. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2018.
  93. ^ 'In Bloom' by Nirvana”. VH1. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2018.
  94. ^ 'Smells Like Teen Spirit' by Nirvana”. VH1. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2018. Chú thích có tham số trống không rõ: |1= (trợ giúp)
  95. ^ “Music Videos”. Kevin Kerslake. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2009.
  96. ^ 'Heart Shaped Box' by Nirvana”. VH1. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2018.
  97. ^ 'You Know You're Right' by Nirvana”. VH1. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2018.
  98. ^ *Đối với Live! Tonight! Sold Out!!: “Billboard magazine – ngày 3 tháng 12 năm 1994 – p. 91 – Top Music Videos” (PDF). americanradiohistory.com. Truy cập 22 tháng 6 năm 2016.
    • Đối với MTV Unplugged in New York: “Top Music Videos”. Billboard: 59. 12 tháng 1 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2014. Truy cập 17 tháng 2 năm 2018.
    • Đối với Live at Reading: Nielsen Business Media, Inc (21 tháng 11 năm 2009). “Top Video Music Sales”. Billboard. 121 (46): 36. ISSN 0006-2510. Truy cập 29 tháng 3 năm 2018.
    • Đối với Live and Loud: “Nirvana – Music Video Sales search results”. billboard.com. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2016.[liên kết hỏng]
  99. ^ “VG-lista – Nirvana”. Lista.vg.no. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2005. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2018.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  100. ^ “RIANZ”. RIANZ. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2018.
  101. ^ *Đối với Live! Tonight! Sold Out!!: pandora.nla.gov.au. “ARIA Chart report 4th December 2006” (PDF). Pandora, Australia's Web Archives. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2016. Truy cập 26 tháng 7 năm 2018.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
    • Đối với Classic Albums: Nirvana – Nevermind: pandora.nla.gov.au. “ARIA Chart report 25th April 2005” (PDF). Pandora, Australia's Web Archives. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 7 năm 2013. Truy cập 26 tháng 7 năm 2018.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
    • Đối với MTV Unplugged in New York: pandora.nla.gov.au. “ARIA Chart report 26th November 2007” (PDF). Pandora, Australia's Web Archives. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 1 năm 2016. Truy cập 26 tháng 7 năm 2018.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
    • Đối với Live at Reading: pandora.nla.gov.au. “ARIA Chart report 9th November 2009” (PDF). Pandora, Australia's Web Archives. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2015. Truy cập 26 tháng 7 năm 2018.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
    • Đối với Live at the Paramount: pandora.nla.gov.au. “ARIA Chart report 10th October 2011” (PDF). Pandora, Australia's Web Archives. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2016. Truy cập 23 tháng 7 năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
    • Đối với Live and Loud: pandora.nla.gov.au. “ARIA Chart report 30th September 2013” (PDF). Pandora, Australia's Web Archives. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 1 năm 2016. Truy cập 23 tháng 7 năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  102. ^ a b c d “Latest Gold / Platinum DVDs”. Radioscope. Bản gốc lưu trữ 24 tháng 7 năm 2011. Truy cập 15 tháng 12 năm 2014.
  103. ^ a b “ARIA Certified DVDs 2007”. aria.com. Truy cập 1 tháng 7 năm 2018.
  104. ^ “ARIA Certified DVDs 2008”. aria.com. Truy cập 1 tháng 7 năm 2018.
  105. ^ “ARIA Certified DVDs 2011”. aria.com. Truy cập 1 tháng 7 năm 2018.
  106. ^ Torreano, Bradley. “Sub Pop 200”. Allmusic. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2017.
  107. ^ Huey, Steve. “Teriyaki Asthma, Vols. 1–5”. Allmusic. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2017.
  108. ^ Erlewine, Stephen Thomas. “Kill Rock Stars”. Allmusic. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2017.
  109. ^ Torreano, Bradley. “The Grunge Years”. Allmusic. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2017.
  110. ^ Torreano, Bradley. “Hard to Believe: Kiss Covers Compilation, Pay to Play bootleg album (only release on CD)”. Allmusic. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2017.
  111. ^ “14 Songs for Greg Sage: Wipers Tribute”. Allmusic. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2017.
  112. ^ Erlewine, Stephen Thomas. “No Alternative”. Allmusic. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2017.
  113. ^ Gaar, 2006. p. 5
  114. ^ Unterberger, Richie. “The Beavis and Butt-Head Experience”. Allmusic. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2017.
  115. ^ Erlewine, Stephen Thomas. “DGC Rarities, Vol. 1”. Allmusic. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2017.
  116. ^ Parisien, Roch. “Home Alive: The Art of Self Defense”. Allmusic. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2017.
  117. ^ Stranzl, Justin. “Various Artists, Saturday Night Live: The Musical Performances Vol. 1 & 2”. PopMatters. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2004. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2017.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  118. ^ Heath, Chris (ngày 14 tháng 5 năm 2002). “Courtney on Unheard Cobain Songs”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2007.
  119. ^ Petrusich, Amanda (ngày 31 tháng 10 năm 2005). “Nirvana: Sliver: The Best of the Box Review”. Pitchfork Media. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2017.
  120. ^ “More Details on Nirvana's Nevermind Reissue”. pitchfork.com. Truy cập 9 tháng 7 năm 2018.
  121. ^ “Nirvana's 'Nevermind' Reissue to Include Unreleased Recordings”. billboard.com. Truy cập 9 tháng 7 năm 2018.
  122. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. rollingstone.com. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 8 năm 2013. Truy cập 9 tháng 7 năm 2017. Đã định rõ hơn một tham số trong |tiêu đề=|title= (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  123. ^ “On Kurt Cobain solo album, "You're eavesdropping on him … in the most positive sense of the word"”. consequenceofsound.net. Truy cập 8 tháng 7 năm 2018.

Liên kết ngoài

  • Website chính thức của Nirvana
  • Danh sách đĩa nhạc của Nirvana trên Discogs
  • Nirvana trên AllMusic
  • x
  • t
  • s
Nirvana
  • Aaron Burckhard
  • Dale Crover
  • Dave Foster
  • Chad Channing
  • Jason Everman
  • Dan Peters
Album phòng thu
Album trực tiếp
Album tuyển tập
Box set
  • Singles
  • With the Lights Out
  • Nevermind: The Singles
EP
  • Blew
  • Hormoaning
Đĩa đơn
Videos
Liên quan
Bài viết
  • Danh sách đĩa nhạc
  • Giải thưởng và đề cử
  • Ca khúc
  • Frances Bean Cobain
  • Vụ tự sát của Kurt Cobain
  • Spencer Elden
Ban nhạc
Sách
  • Come as You Are: The Story of Nirvana
  • Heavier Than Heaven
  • Journals
  • Letters to Kurt
Album
  • Nevermind It's an Interview
  • Smells Like Bleach: A Punk Tribute to Nirvana
Tài liệu
  • 1991: The Year Punk Broke
  • Kurt & Courtney
  • Classic Albums: Nirvana – Nevermind
  • Nirvana – A Classic Album Under Review – In Utero
  • Kurt Cobain: About a Son
  • Hit So Hard

Danh sách chọn lọc Danh sách đĩa nhạc của Nirvana” là một danh sách chọn lọc của Wikipedia tiếng Việt.
Mời bạn xem phiên bản đã được bình chọn vào ngày 24 tháng 6 năm 2019 và so sánh sự khác biệt với phiên bản hiện tại.